Nguy cơ lớn, rủi ro cao
Theo thông báo từ Trung tâm Lao động ngoài nước và các doanh nghiệp có chức năng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đến nay người lao động ở tỉnh Đắk Lắk đi làm việc tại nước ngoài bỏ trốn, cư trú bất hợp pháp tương đối nhiều. Hiện, tổng số lao động bỏ trốn là 56 người; trong đó lao động tại Hàn Quốc bỏ trốn đông nhất là 43 người, lao động tại Malaysia bỏ trốn là 12 người và lao động tại Đài Loan bỏ trốn là 1 người.
Doanh nghiệp tư vấn cho người lao động tại phiên giao dịch việc làm năm 2015. |
Việc bỏ trốn khỏi nơi làm việc và cư trú bất hợp pháp của người lao động tại nước ngoài gây nhiều thiệt hại cho chính bản thân người lao động bởi những nguy cơ và các rủi ro phải đối mặt. Lao động bất hợp pháp tại nước ngoài đồng nghĩa là người lao động đã tự đánh mất tư cách pháp nhân, từ bỏ quyền được pháp luật nước bạn bảo vệ, phải sống và làm việc chui lủi nơi đất khách quê người. Đã có nhiều trường hợp, người lao động nghe theo lời dụ dỗ của các đối tượng môi giới bất hợp pháp bỏ trốn ra ngoài làm việc, do không có giấy phép lao động, không có thẻ cư trú nên bị bóc lột sức lao động, thậm chí bị lạm dụng tình dục, bị cảnh sát địa phương bắt giam giữ, phạt tù, bị trục xuất về nước… Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng bị ảnh hưởng, chịu thiệt hại: Sau mỗi sự cố người lao động bỏ trốn, do hoạt động sản xuất bị gián đoạn, chủ lao động của nước sở tại phải bỏ thêm thời gian, chi phí để tuyển lao động mới thay thế nên quay sang phạt doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam vi phạm hợp đồng, yêu cầu bồi thường thiệt hại bằng hình thức phạt tiền và cắt chỉ tiêu tiếp nhận lao động. Mặt khác, việc bỏ trốn khỏi nơi làm việc và cư trú bất hợp pháp của người lao động tại nước ngoài cũng làm ảnh hưởng đến uy tín về chất lượng lao động, hình ảnh lao động Việt Nam bị xấu đi trong mắt bạn bè quốc tế, giá cả của lao động Việt Nam bị hạ thấp, thậm chí dẫn đến tình trạng lao động Việt Nam sẽ bị một số thị trường từ chối tiếp nhận, gây ảnh hưởng không tốt đến mối quan hệ hợp tác quốc tế giữa Việt Nam với các nước tiếp nhận lao động.
Tuy phải đối mặt với nhiều nguy cơ rủi ro, nhưng tình trạng người đi lao động tại nước ngoài bỏ trốn vẫn còn xảy ra khá nhiều. Khi được hỏi về nguyên nhân người lao động bỏ trốn, ông Y Năm Ênuôl (xã Ea Tiêu, huyện Cư Kuin) và ông Y Ken Bdăp (xã Hòa Hiệp, huyện Cư Kuin) – đều là thân nhân của người lao động bỏ trốn – cho rằng: Do phía chủ sử dụng lao động không bố trí được công việc, mức lương thấp không bảo đảm cuộc sống cho lao động; việc khám sức khỏe định kỳ không đạt yêu cầu buộc người lao động phải về nước nhưng người lao động không được doanh nghiệp tư vấn kỹ về thông tin mắc phải những bệnh nào thì phải về nước... Còn theo các ngành chức năng, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến người lao động bỏ trốn là vì lý do kinh tế. Người lao động làm việc tại nước ngoài sẵn sàng phá vỡ hợp đồng ra ngoài làm để có thu nhập cao hơn, cho dù việc làm này có thể gặp rủi ro và bị trục xuất về nước. Thị trường Hàn Quốc có tỷ lệ lao động bỏ trốn cao nhất (43 người bỏ trốn đều đã hết hạn hợp đồng lao động) vì đây là quốc gia phát triển có thu nhập cao, nếu trốn ra ngoài làm việc, người lao động có thể có mức thu nhập từ 2.000 – 3.000 USD/người/tháng và nếu không bị bắt, bị trục xuất thì sẽ được làm việc lâu hơn ở nước ngoài...
Cần sự thay đổi ý thức của chính người lao động
Được biết, để tạo cơ hội cho người lao động đi làm việc tại nước ngoài bỏ trốn, cư trú bất hợp pháp hồi hương, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 62/NQ-CP, trong đó nêu rõ người lao động Việt Nam ở Hàn Quốc có hành vi bỏ trốn khỏi nơi đang làm việc theo hợp đồng hoặc ở lại Hàn Quốc trái phép sau khi hết hạn hợp đồng mà tự nguyện về nước trong thời hạn từ ngày 1-9-2015 đến hết 31-12-2015 sẽ không bị phạt tiền (từ 80 triệu đến 100 triệu đồng theo quy định tại Điều 35 của Nghị định số 95/2013/NĐ-CP); đồng thời được nhận các hỗ trợ về giới thiệu việc làm, lập nghiệp, có cơ hội trở lại Hàn Quốc làm việc sau hai năm kể từ ngày tự nguyện về nước… Để phổ biến quy định này, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội đã tổ chức tập huấn về thông tin miễn xử phạt và có gửi văn bản đến các địa phương. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có người lao động bỏ trốn nào “chịu” về nước.
Phiên giao dịch việc làm lần thứ 11 năm 2015 thu hút đông đảo người lao động tham gia. |
Trước tình hình trên, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã báo cáo UBND tỉnh đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo UBND các cấp thông tin, tuyên truyền và yêu cầu gia đình, người thân vận động người lao động về nước, trở lại nơi làm việc. Đồng thời, để có hướng xử lý, chấn chỉnh, khắc phục tình trạng này, vừa qua, Sở đã phối hợp với UBND huyện Cư Kuin tổ chức buổi đối thoại trực tiếp giữa các cơ quan chức năng, doanh nghiệp và thân nhân của người lao động đang bỏ trốn. Tại buổi đối thoại, nhiều giải pháp đáng chú ý đã được nêu ra như: Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chính sách, pháp luật xuất khẩu lao động và các quy định hướng dẫn chương trình đưa người lao động đi làm việc tại nước ngoài; tuyên truyền, vận động từng gia đình, cam kết việc người thân làm việc tại nước ngoài về nước đúng thời hạn, nhất là nâng cao ý thức của người lao động về việc chấp hành các điều khoản của hợp đồng lao động. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, cần nâng cao năng lực trong việc tuyển chọn, đào tạo cung ứng lao động, chú trọng công tác giáo dục định hướng người lao động trước khi lên đường xuất ngoại, tăng cường giáo dục, quản lý trong thời gian họ làm việc ở nước ngoài, thu thập và công bố đầy đủ thông tin chính xác về việc làm ở nước ngoài gồm tiền lương, thời gian làm việc, chế độ phúc lợi, các quyền và nghĩa vụ liên quan... để cung cấp cho người lao động, giúp họ hiểu rõ những rủi ro và tác hại nếu bỏ trốn, từ đó yên tâm làm việc theo hợp đồng đã ký kết...
Hiện Sở Lao động – Thương binh và Xã hội đang tiếp tục phối hợp với các ngành chức năng, các địa phương rà soát và vận động những gia đình có người thân đi làm việc tại nước ngoài đang bỏ trốn, cư trú bất hợp pháp nhanh chóng về nước. Tuy nhiên, vấn đề này chỉ có thể được giải quyết triệt để từ chính sự thay đổi ý thức cũng như sự chấp hành luật pháp và các quy định, điều khoản hợp đồng của người lao động.
Theo baodaklak