Dòng chảy lễ hội mùa xuân trên quê hương đất tổ
Ở Phú Thọ nhiều hội làng truyền thống khá đặc sắc, trong đó phần nghi thức lễ được đặc biệt chú trọng: lễ rước tiếng hú ở Chu Hóa, lễ cúng cung tên ở Phú Lộc, lễ đánh cá thờ ở Đào Xá, lễ gọi vía lúa ở Thanh Uyên, Đồng Lạc; lễ rước cầu ở Bạch Hạc, lễ cúng củ mài cùng mật ong ở Hương Nộn... đã phản ánh khá rõ đặc trưng tín ngưỡng bản địa với hoàn cảnh địa lý và điều kiện sinh hoạt của mình. Đây là bóng dáng còn lại của xã hội thời Hùng Vương (thời kỳ săn bắt và hái lượm). Lễ tế Thần nông, lễ Hạ điền (xuống đồng) được dân chúng quan tâm và tin rằng trời, đất, sông, núi đã che chở cho sự tồn tại và phát triển của mình. Người làm nghề nông rất cần nước, cần nắng. Lễ rước nước ở Văn Lang (Hạ Hòa) mở đầu cho các ngày hội với mục đích để tắm tượng thần và rửa đồ tế khí nhưng đây cũng là hình thức cầu mùa cư dân trồng lúa nước.
Truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” là một đạo lý tốt đẹp của dân tộc. Vào dịp tháng 3 âm lịch hằng năm hàng chục vạn đồng bào lại nô nức hành hương về Đền Hùng thắp nén hương thơm tưởng nhớ công ơn dựng nước của các Vua Hùng, tổ tiên cộng đồng các dân tộc Việt Nam:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Nét đẹp truyền thống đạo lý đó đã trở thành ý thức hệ văn hóa tinh thần và tín ngưỡng dân tộc độc đáo: Thờ cúng ông bà, tổ tiên trong dòng họ và thờ cúng tổ tiên chung trong cộng đồng.
Lễ hội dân gian truyền thống không những là dịp tốt để mọi người cùng giao lưu, cộng cảm, trao truyền đạo lý thuần phong mỹ tục và những khát vọng cao đẹp mà còn là chiếc cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, khơi dậy lòng tự hào về gốc gác tổ tông mình. Đến hội mọi người được vui chơi thỏa thích không bị ràng buộc bởi lễ nghi, tôn giáo, đẳng cấp và tuổi tác. Sau những ngày làm ăn vất vả người dân đón chờ ngày hội như đón chờ niềm vui thiêng liêng với một tâm trạng háo hức kỳ lạ. Đến hội họ được tắm mình trong bầu không khí tinh thần hồ hởi, sảng khoái và tự nguyện. Ngoài phần vui chơi giải trí gặp gỡ bạn bè, anh em người về dự hội còn cảm thấy mình được “may” được “khước”, được “lộc thánh”, “lộc thần”. Điều này chỉ có trong ngày hội và ai muốn được phải đến tận nơi. Vì vậy hội rất đông, rất nhộn nhịp và hội làng trở thành một sinh hoạt văn hóa cộng đồng luôn cuốn hút mọi tầng lớp trong xã hội tham gia.
Biểu diễn hát xoan tại Lễ hội Đền Hùng. Ảnh: T.L |
Hội hè thường đi đôi với đình đám. Xưa kia việc ăn uống trong ngày hội là điều không thể thiếu. Vì nó không là bữa tiệc thông thường mà là sự hưởng thụ lễ vật của hội. Chỉ sau khi mọi nghi thức tế lễ, mọi cuộc trình diễn đã xong thì người ta mới hạ cỗ để ăn và chia phần. Đây là hành động nghi lễ văn hóa và hưởng vật phẩm tế lễ là hưởng “lộc thánh” và bữa ăn tại chốn đình chung là biểu hiện tinh thần bình đẳng và dân chủ. Khẩu phần thực tế có thể ít ỏi song có ý nghĩa rất lớn, thể hiện sự công bằng trong lối ứng xử cộng đồng. Tâm lý coi hội làng là “Hội của mình” ở mọi người dân trong làng xã là một thực tế không thể phủ nhận. Hội làng cũng là cơ hội tốt để trình bày tinh hoa văn hóa của người nông dân.
Thời phong kiến đặc thù của nhiều làng quê ở Phú Thọ làm nông nghiệp là độc canh tự cung, tự cấp. Sự khép kín ấy là cần thiết cho bản sắc làng, song cuộc sống tiếp diễn luôn uyển chuyển. Làng vẫn phải có nhiều mối liên hệ mật thiết với các làng khác, từ đó sinh ra tục kết chạ trong mối quan hệ tinh thần thiêng liêng. Tục kết chạ đề cao lễ, nghĩa, đức. Dân hai làng đều suy tôn nhau là dân anh, tự mình nhận là dân em. Khi có khó khăn trong cuộc sống hai làng giúp nhau hết mình, khi tổ chức hội làng thì mời nhau sang dự. Có thể nói, tục kết chạ đã xây dựng lên mối liên hệ vững vàng giữa các làng với nhau để hình thành mối liên kết làng nước. Điều này biểu dương tinh thần và sức mạnh cố kết cộng đồng, bộc lộ bản sắc và sức sống mãnh liệt của người dân lấy làng là cơ sở cho nước, cũng như ở mỗi làng gia đình và dòng họ là sức mạnh của làng.
Hội làng đã bảo lưu được văn hóa truyền thống, văn minh, văn hiến vùng Đất Tổ biểu hiện ở nếp sống với ý thức về cội nguồn, đồng loại, ý thức về mỹ tục (ứng xử kết chạ, tinh thần trọng lão, tinh thần dân chủ công bằng), ý thức về tài năng văn hóa nghệ thuật, thể thao dân tộc, kỹ thuật cổ truyền. Kho tàng lễ hội dân gian truyền thống vùng Đất Tổ cho ta thấy lại hình bóng xã hội thời đại Hùng Vương xa xưa. Đó là văn hóa của cư dân trồng lúa nước nền văn minh sông Hồng nổi tiếng, mà tiêu biểu là tín ngưỡng phồn thực, một tín ngưỡng cầu mong sinh sôi nảy nở của con người, vật nuôi và cây trồng. Đó còn là hành trạng công tích của các tướng lĩnh thời Hùng Vương, các nhân vật lịch sử nổi tiếng những người có công mở làng dựng nước được nhân dân thờ phụng. Có thể nói nét đẹp, nét độc đáo của các lễ hội dân gian truyền thống trên quê hương Đất Tổ đã và đang góp phần làm đẹp làm phong phú thêm kho tàng lễ hội Việt Nam.
Theo baodakdak